1. Loại bỏ các khuyết điểmChúng ta sẽ sử dụng hình ảnh sau đây cho hướng dẫn Photoshop này:
Download hình ảnh này tới ổ cứng của bạn bằng cách nhấp chuột ngay
lên hình ảnh và chọn (khi bạn sử dụng Windows) Save Picture As…
Điều đầu tiên chúng ta sẽ làm là loại bỏ các nhược điểm trênkhuôn
mặt. Trong hình ảnh bên dưới, tôi đã đánh dấu những vùng tôi nghĩ cần
phải chỉnh sửa:
Lý do chúng ta phải loại bỏ các nhược điểm, đầu tiên là vì chúng ta
sẽ có các kết quả tốt hơn sau khi chúng ta làm cho làn da trở nên mềm
mại hơn trong các bước tiếp theo.
Công cụ mà chúng ta sử dụng để loại bỏ các nhược điểm là Healing Brush Tool
chúng ta có thể tìm thấy trên Tool Bar:
Đầu tiên, chúng ta thêm một layer mới bằng cách nhấp chuột lên the Create a New Layer icon
trong Layer Palette. Đổi tên layer này bằng cách nhấp đúp lên tên của nó trong Layer Palette và gọi tên nó là Blemishes.
Với Healing Brush Tool đã chọn, chúng ta hãy nhìn vào Option Bar:
Bên tay trái, chúng ta sẽ thấy một chấm màu đen với một edge sắc nét:
có nghĩa Brush sử dụng sẽ có Edge cứng (còn gọi là 100% Hardness). Bên
dưới, chúng ta thấy kích thước của Brush là 19. Tiếp theo, chúng ta chú ý
Blending Mode của Brush này đã được chọn. Đối với hướng dẫn này, chúng
ta chỉ sử dụng Normal Mode. Nếu bạn muốn biết nhiều hơn về các Blend
Mode, bạn có thể xem bài viết chi tiết của Jay Arraich: Blend Modes
Lựa chọn tiếp theo được gọi là Source, trong đó chúng ta sẽ có 2 lựa chọn nữa; Sampled hoặc Pattern.
Sampled nghĩa là chúng ta sẻ sử dụng hình ảnh của chúng ta như hình ảnh nguồn.
Pattern có nghĩa chúng ta sẽ sử dụng một pattern hiện tại như hình ảnh nguồn.
Đa phần các bạn sẽ chọn Sampled, vì chúng ta luôn muốn tạo một vùng mới
có texture tương tự như vùng xung quanh nó. Pattern có thể hữu ích nếu
bạn không có bất kỳ một phạm vi nào trong hình ảnh của bạn muốn sử dụng
texture của bạn.
Chúng ta sẽ sử dụng Sampled.
Lựa chọn Aligned cho phép chúng ta có một khu vực nguồn hướng theo con trỏ màn hình. Hãy xem trong hình bên dưới:
Trong ví dụ này, người dùng có vùng C đã chọn như là vùng nguồn (sau
này, chúng ta sẽ học cách thiết lập vùng nguồn). Đầu tiên, người dùng
nhấn nút chuột để loại bỏ một nhược điểm (trong trường hợp này là điểm
A). Photoshop sẽ ghi nhớ khoảng cách và Angle giữa A và C. Do đó, nếu
người dùng quyết định loại bỏ nhược điểm ở điểm B, thì phạm vi nguồn sẽ
nằm ở điểm D (Angle tương tự và khoảng cách tương tự).
Bạn có thể nói sau khi người dùng bắt đầu sử dụng Healing Brushbằng cả
con trỏ và phạm vi nguồn ‘glued’ như hiển thị trong hình ảnh hơi động
này:
Ưu điểm của lựa chọn Aligned là chúng ta luôn đứng gần với vùng mà
chúng ta cần chỉnh sửa mà texture lại giống với texture mà chúng ta muốn
sử dụng cho vùng chỉnh sửa đó.
Chú ý Use All Layer đã đươc chọn. Điều này có nghĩa phạm vi nguồn
không nằm trên cùng một layer, trong trường hợp của chúng ta đấy là
Blemishes layer. Đồng thời kết quả sử dụng Healing Brush Tool đã được
đặt trên layer vừa kích hoạt, trong trường hợp này là Blemishes layer.
Tuy nhiên Healing Brush chỉ sử dụng các Pixels mà chúng ta nhìn thấy
trên cửa sổ document của chúng ta, như tôi đã nói, không quan trong đó
là layer nào.
Nếu bạn quay lại màn hình chụp của Options Bar, bạn sẽ thấy tôi đã
đặt chữ A bên cạnh tam giác màu đen nhỏ. Nhấp chuột lên hình tam giác
nhỏ và một cửa sổ mới xuất hiện:
Chúng ta sẽ sử dụng một Brush có kích thước nhỏ cho Healing Brush
Tool, chúng ta sẽ chọn giá trị khoảng 20px. Chúng ta cũng có chọn các
Edge mềm để tránh các vùng chỉnh sửa của chúng ta bị nhận ra trong hình
ảnh cuối cùng. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta chọn giá trị 0%
Hardness. Các thiết lập khác của có các giá trị mặc định của Photoshop
và không cần thay đổi. Nếu các giá trị đó khác nhau, hãy thay đổi chúng
cho phù hợp với giá trị trong màn hình chụp Options Bar.
Điều cuối cùng chúng ta phải làm trước khi bắt đầu loại bỏ một số nhược
điểm là thiết lập phạm vi nguồn. Di chuyển con trỏ trên màn hình gần tới
vùng mà bạn cần chỉnh sửa (vùng nguồn và vùng cần chỉnh sửa không chồng
lên nhau) và giữ phím Alt (Option Key trên Mac) và nhấn chuột trái; làm
như vậy để đánh dấu phạm vi nguồn. Với phạm vi nguồn đã thiết lập, bạn
có thể bắt đầu loại bỏ các nhược điểm trên khuôn mặt bằng cách sử dụng
con trỏ màn hình như một số Magic Brush.
Chú ý: đôi khi cần thay đổi phạm vi nguồn của Healing brush Tool. Bạn
có thể thực hiện điều này mọi lúc bằng cách làm theo các bước tương tự
như chúng ta đã thiết lập phạm vi nguồn ban đầu.
2. Làn da mịn màngTạo một layer mới trong Photoshop phía trên Blemishes layer bằng cách nhấp chuột lên Create a New Layer icon
. Đổi tên layer này thành Smooth Skin (kích đúp lên tên của nó trong Layer Palette).
Giữ phím Ctrl + Alt + Shift + E (Command + Option + Shift + E trên Mac)
để merge tất các layer có thể nhìn thấy trên layer đang kích hoạt (nên
nhớ phím tắt Photoshop này là một phím rất hữu ích) hoặc mặt khác; layer
Smooth Skin sẽ chứa hình ảnh có thể nhìn thấy trong cửa sổ document khi
bạn sử dụng phím tắt này, trong đó có chứa tất cả các vùng đã chỉnh sửa
khuyết điểm.
Chúng ta sẽ sử dụng Median filter để làm cho làn da trở nên mịn màng.
Một số hướng dẫn khuyên bạn nên sử dụng Gaussian Blur, nhưng tôi thích
Median vì nó giữ gìn các edge tốt hơn và nó giữ cho những edge sắc nét
mà chúng ta không muốn đụng đến một cách chính xác nhất có thể. Để nhìn
thấy sự khác biệt giữa việc sử dụng Gaussian Blur hay Median cho hình
ảnh của chúng ta, hãy quan sát so sánh sau đây:
Gaussian BlurMedian Chú ý: sử dụng Gaussian Blur, bạn đang di chuyển màu xanh dương này
từ background vào trong làn da. Tất nhiên, đây là những gì chúng ta nên
tránh.
Bây giờ, vào Menu và chọn Filter / Noise / Median… nhập một Radius 10px và nhấp OK. Thiết lập Opacity của layer này là 50%.
Kết quả:
Bây giờ làm da đã như những gì chúng ta muốn, nhưng sử dụng Median
filter, chúng ta đã làm mờ những vùng cần giữ cho sắc nét như đôi mắt,
môi. Mái tóc, mũ, lông mày, lông mi và các edge của sống mũi và lỗ mũi.
Chúng ta sẽ chỉnh sửa điều này bằng cách thêm một Mask, mask sẽ cho phép
chúng ta bỏ qua những vùng mà chúng ta cần giữ sự sắc nét.
Chúng ta thêm một Mask cho Smooth Skin layer bằng cách nhấp chuột lên Add layer mask icon
trong Layer Palette.
Nhấn chữ D trên bàn phím để làm cho màu của foreground là màu trắng và background là màu đen:
Nhấn chữ X trên bàn phím của bạn để mở màu sắc foreground và background:
Chọn Brush Tool bằng cách nhấp chuột lên icon của nó
trên thanh Tool Bar. Kiểm tra trên Options Bar:
Sử dụng các thiết lập như bạn thấy trên Options bar. Chú ý, chúng ta
sẽ bắt đầu với một Brush có kích thước 50. Lần này Hardness của brush
cũng được thiết lập 100% (edge cứng). Bạn có thể thay đổi cả kích thước
và độ cứng của brush này bằng cách nhấp chuột lên mũi tên nhỏ màu đen
như chúng ta đã làm trước đó với Healing Brush Tool.
Bây giờ, điều quan trọng bạn đã kích hoạt Mask mọi lúc trước khi bạn
bắt đầu sử dụng Brush, vì chúng ta phải gắn Brush Stroke vào mask của
chúng ta chứ không phải vào hình ảnh. Một Mask kích hoạt có thể được sắp
xếp bằng cách kích đúp lên border của nó (đã đánh dấu bằng mũi tên màu
đỏ) và Mask Icon
ở đằng trước nó:
Để có thể nhìn thấy những gì chúng ta đang mask, chúng ta bật Quick
Mask bằng cách nhấn trên bàn phím của bạn. Bạn không muốn nhìn thấy
những gì diễn ra, nhưng chúng ta sẽ tô màu lên chiếc mũ bên trong cửa sổ
document. Bạn sẽ thấy Quick Mask Mode đã dánh dấu vùng mà chúng ta sẽ
Mask với một màu đỏ trong suốt. Bỏ chọn Quick Mask bằng cách nhấn một
lần nữa và bạn sẽ thấy vùng của background layer mà bạn đã làm cho nhìn
thấy được bằng cách mask vùng tương tự trên Smooth Skin layer:
Toàn bộ mục đích của việc mask trong hướng dẫn này là để ẩn vùng đang
bị mờ và những vùng muốn giữ lại sự sắc nét. Bạn có thể thay thế màu
sắc và Opacity của Quick Mask bằng cách nhấp chuột phải lên Thumbnail
của mask trong Layer Palette và chọn Layer Mask Options… , cửa sổ sau sẽ
được mở ra:
Trong cửa sổ này, bạn có thể thay đổi màu sắc bằng cách kích đúp lên
hình vuông màu đỏ. Bạn cũng có thể thay đổi Opacity của Quick Mask
color, trong đó mặc định là 50%.
Chú ý: Thiết lập Opacity không ảnh hưởng đến layer hoặc mask của nó, nó
chỉ ảnh hưởng lên độ trong suốt của mask trong Quick Mask mode.
Tiếp theo, làm xuất hiện Quick Mask mode bằng cách nhấn một lần nữa.
Hãy nhìn vào màn hình bên dưới:
Bạn sẽ thấy tôi đã mask mọi thứ cần thiết phải giữ sắc nét (không ảnh
hưởng tới median filter). Nếu bạn có thời gian bạn sẽ mask toàn bộ vùng
cần mask, sau đó thực hiện điều sau đây:
- Nếu Quick Mask mode là bật, tắt
- Alt + Left click (Option + click trên Mac) trên thumbnail của mask (xem màn hình chụp tiếp theo, A) trong Layer Palette
Điều này sẽ cho phép bạn xem (hoặc edit) mask trong cửa sổ document
của bạn và sẽ hiện thị chính xác vị trí bạn cần phải điều chỉnh, như
trong trường hợp này là xung quanh mắt trái:
Bạn có thể quay lại xem bình thường bằng cách kích chuột lên thumbnail của layers trong Layer Palette (B).
Để tạo một mask rõ ràng, bạn phải sử dụng các hướng dẫn sau:
- Thay đổi kích thước Brush. Đôi khi thay thế cách mở Options Bar bằng
cách sử dụng phím tắt; nhấn [trên bàn phím của bạn để giảm kích thước
hoặc nhấn] để tăng kích thước của nó. Đây cũng có một phím tắt để điều
chỉnh độ cứng; nhấn Shift + [ để giảm độ cứng của brush hoặc nhấn Shift
+] để tăng độ cứng.
- Mask các vùng lớn với Brush lớn và độ cứng 100%.
- Mask vùng nhỏ với brush nhỏ và độ cứng là 0%.
- Mask edge chính xác bằng cách sử dụng yếu tố Zoom lớn và thực hiện
với một brush nhỏ, độ cứng 0% và Opacity thấp (khoảng 30 – 50%).
Ngoài ra bạn cũng phải đảm bảo bạn không quên mask vùng như góc
miệng, tóc, lông mày, lông mi và vùng xung quanh mũi và lỗ mũi. Đối với
các vùng này, hãy thử sử dụng một brush nhỏ, mềm với opacity thấp.
Đây là kết quả cuối cùng (sau một phải chỉnh sửa nhẹ)
Quan trọng: Trình duyệt của bạn có đủ thời gian để download hình ảnh “sau” hoặc bạn sẽ không thấy gì khác biệt.
Chú ý: bạn có thể giảm cường độ của hiệu ứng bằng cách giảm Opacity
của Smooth Skin layer. Trong ví dụ này, giảm 50% opacity là chúng ta sẽ
thấy sự khác biệt rõ ràng. Theo cá nhân tôi, tôi đề nghị bạn nên giảm
khoảng 25- 30% Opacity.
Tôi hi vọng bạn thích hướng dẫn này và đừng quên kiểm tra vẻ đẹp của khuôn mặt trong Photoshop sau khi đã chỉnh sửa nhé!